Powered by RND
PoddsändningarTạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam

Tạp chí Việt Nam
Senaste avsnittet

Tillgängliga avsnitt

5 resultat 29
  • Việt Nam: Đội vốn và trễ hạn: Hai vấn đề chính của các dự án cơ sở hạ tầng lớn
    Để có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Việt Nam đã đề ra một kế hoạch đầy tham vọng với nhiều dự án cơ sở hạ tầng lớn. Nhưng để những dự án này có thể được thật sự có hiệu quả, phải làm sao giải quyết được những nguyên nhân dẫn đến hai vấn đề chính, đó là đội vốn và trễ hạn. Trong năm 2025, tổng vốn đầu tư công được phê duyệt dự kiến ​​sẽ lên tới 875 nghìn tỷ đồng (35 tỷ đô la ), tăng 37,7% so với tổng số vốn được giải ngân vào năm 2024. Các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng đang được xây dựng bao gồm Đường cao tốc Bắc-Nam và Sân bay quốc tế Long Thành. Riêng dự án tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, sẽ có chi phí hơn 67 tỷ đô la và dự kiến ​​hoàn thành vào năm 2035, đang gây rất nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Theo bộ Xây Dựng Việt Nam, hiện đã có 5 doanh nghiệp nộp đề xuất sơ bộ đầu tư vào dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, trong đó có Công ty Đầu tư và Phát triển Đường sắt tốc độ cao Vinspeed, thuộc tập đoàn tư nhân Vingroup của nhà tỷ phú Phạm Nhật Vượng. Theo phương án đề xuất, VinSpeed cam kết tự tìm 20% vốn (tương đương khoảng 12 tỷ đô la), phần còn lại họ đề nghị được vay từ nguồn vốn nhà nước với lãi suất 0% trong 35 năm. Thời gian thi công dự kiến 5 năm và khai thác trong 99 năm. Tương tự, Thaco (Tập đoàn Trường Hải) cũng đề xuất phương án đầu tư với 20% vốn tự có, phần còn lại huy động từ các nguồn trong và ngoài nước, thời gian thi công 7 năm, vận hành 70 năm.   Nhưng các chuyên gia đang đặt nhiều nghi vấn về khả năng của những tập đoàn nói trên huy động được số vốn cần thiết, cũng như khả năng hoàn thành dự án đúng thời hạn cam kết.  Vấn đề là các dự án cơ sở hạ tầng công ở Việt Nam cho tới nay thường bị chậm tiến độ, lãng phí và bị đội vốn. Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, Việt Nam đã thông qua rất nhiều dự án xây dựng cơ sở tầng lớn, đặc biệt là dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Đối với một dự án lớn kéo dài nhiều năm như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, liệu Việt Nam có đủ khả năng để huy động nguồn vốn? Và nhất là nếu có sự tham gia của các tập đoàn tư nhân như Vinspeed, liệu họ có đủ khả năng để huy động vốn? Lê Hồng Hiệp: Năm nay Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP là 8% và các năm sau là ít nhất là 10%. Trong bối cảnh các trụ cột khác của tăng trưởng kinh tế như là xuất khẩu, tiêu dùng trong nước, đổi mới sáng tạo, còn đang gặp rất là nhiều khó khăn, việc tăng cường đầu tư cả tư nhân lẫn đầu tư công, đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trở thành một lựa chọn bắt buộc đối với Việt Nam để giúp tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần một nguồn vốn khổng lồ. Gần đây, các chuyên gia của tập đoàn phát triển hạ tầng tư nhân có ước tính là từ giờ tới năm 2040, Việt Nam cần khoảng 570 tỷ đô la đầu tư vào cơ sở tầng cho các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, viễn thông, hay các hạ tầng liên quan. Để mà huy động được nguồn vốn khổng lồ như vậy thì Việt Nam sẽ phải thông qua nhiều con đường phổ biến nhất.  Thứ nhất là ngân sách nhà nước thông qua các thu xếp cho các khoản đầu tư phát triển, đầu tư cơ sở tầng. Thứ hai là vay nợ của nhà nước thông qua việc phát hành trái phiếu trong nước cũng như ở nước ngoài và vay nợ từ các cái đối tác phát triển, bao gồm các đối tác ODA, cũng như các tổ chức tín dụng phát triển quốc tế. Thứ ba là huy động vốn từ khu vực tư nhân, như VinGroup hay Thaco, để tham gia phát triển dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Thứ tư là hợp tác công tư, hình thức hợp tác giữa nhà nước và lĩnh vực tư nhân để có các giải pháp tài chính phục vụ cho những mục tiêu phát triển. Việt Nam phải phối hợp các cái nguồn vốn khác nhau. Có những dự án thì có thể phải huy động ngân sách nhà nước, đặc biệt là những dự án mà lĩnh vực tư nhân có thể không đủ năng lực hay là không có lợi ích nhiều khi tham gia. Tôi lấy ví dụ dự án phát triển điện hạt nhân: Hiện tại Việt Nam đang đề ra mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân. Nguồn vốn ước tính lên tới khoảng 22 tỷ đô la. Các doanh nghiệp tư nhân không đủ năng lực, cũng như không có lợi ích nhiều khi tham gia các dự án này. Trong những lĩnh vực như vậy thì nhà nước sẽ phải huy động vốn từ ngân sách nhà nước hay là vay nợ của nước ngoài. Tuy nhiên, những lĩnh vực khác như phát triển đường cao tốc, hay đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thì có thể xem xét việc tạo nguồn vốn từ lĩnh vực tư nhân. Tuy nhiên, do lĩnh vực hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài và khả năng thua lỗ rất là cao, việc huy động từ lĩnh vực tư nhân cũng không hề đơn giản và đấy là lý do mà chúng ta sẽ thấy trong cái thời gian tới sẽ có các cuộc tranh luận, các cân nhắc liên quan tới dự án đường sắt tốc độ cao Bắc -Nam: Liệu có nên giao cho các tập đoàn tư nhân hay không và nếu giao cho họ thì các điều kiện, điều khoản liên quan tới các ưu đãi cho nhà đầu tư, để làm sao họ có thể thu hồi vốn trong quá trình tham gia phát triển các dự án đầu tư cơ sở tầng lớn như vậy thì sẽ được tiến hành như nào? RFI: Thưa anh, cho dù là vốn tư nhân hay vốn nhà nước, thì các vấn đề lớn cho tới nay ở Việt Nam, đó là những dự án cơ sở hạ tầng thường hay bị chậm tiến độ cũng như là hay bị đội vốn, tức là số vốn ban đầu ước tính như thế nhưng cuối cùng thì rất là cao, như dự án Metro ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây có phải là vấn đề sẽ đặt ra trong những năm tới đối với những cái dự án vừa nói ở trên? Lê Hồng Hiệp: Đội vốn hay là chậm tiến độ, trễ hạn là một vấn đề sẽ còn lặp lại ở nhiều dự án khác nhau. Đây không chỉ là vấn đề của riêng của Việt Nam, mà còn xảy ra với nhiều dự án ở các quốc gia khác, kể cả các nước phát triển, vì nhiều lý do khác nhau. Riêng ở Việt Nam thì chúng ta thấy vấn đề này diễn ra quá thường xuyên, những dự án càng lớn thì nguy cơ đội vốn hay trễ hạn thì càng cao hơn.  Có một số nguyên nhân.Thứ nhất là việc lập kế hoạch thiếu thực tế, không có tính khả thi cao. Ví dụ như Việt Nam vừa rồi đề xuất mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm tới, năm 2030, 2031 là hoàn thành. Tôi nghĩ đấy là một mục tiêu không thực tế. Thực tiễn ở các quốc gia khác chỉ ra rằng phát triển những dự án điện hạt nhân lớn như vậy cần rất nhiều thời gian. Việc lập kế hoạch cũng phải kỹ càng hơn. Trong bối cảnh Việt Nam, việc phát triển trong vòng 5 năm hai nhà máy điện hạt nhân công suất lớn như vậy là hoàn toàn là không khả thi. Chưa kể là chúng ta chưa có một kế hoạch rõ ràng cụ thể chi tiết các công nghệ mà chúng ta sẽ sử dụng là gì và sẽ mua từ đâu.  Thứ hai là năng lực quản lý, chúng ta thấy Việt Nam cũng thiếu kinh nghiệm quản lý các dự án, đặc biệt là các dự án quy mô lớn, do đó dẫn tới chậm trễ trong việc phối hợp giữa các bên và các biện pháp phê duyệt thủ tục. Các dự án nhỏ hơn rất nhiều như Metro Nhổn - Ga Hà Nội, hay Metro số 1 ở Sài Gòn quy mô không phải quá lớn, nhưng cũng trễ hạn rất nhiều và đội vốn rất nhiều. Lâu nay chúng ta cũng thường đổ lỗi là do các nhà thầu nước ngoài, nhưng rất nhiều nguyên nhân là xuất phát từ phía Việt Nam.  Liên quan tới năng lực quản lý thì còn có vấn đề thủ tục hành chính phức tạp. Trong dự án metro Bến Thành - Suối Tiên chẳng hạn, có rất nhiều vướng mắc liên quan tới giải ngân của ODA từ Nhật Bản, do thủ tục pháp lý hành chính từ phía Việt Nam rất phức tạp về quy trình phê duyệt rồi quy trình thay đổi các chi tiết của dự án, dẫn tới chậm trễ trong việc giải ngân, dẫn tới định trệ của tiến độ dự án. Ở nhiều dự án của Việt Nam thì còn có vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới chậm trễ và đội vốn.  Thứ tư là phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Nhập khẩu các công nghệ và thiết bị nước ngoài có thể khiến chi phí tăng cao, đặc biệt là khi tỷ giá biến động hoặc là khi nhà thầu ngoại quốc trì hoãn việc nhập khẩu thì có thể cũng dẫn tới tiến độ bị chậm trễ và chi phí gia tăng. Trong thời gian tới, khi Việt Nam tiến hành các dự án quy mô lớn hơn như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, nếu không có các biện pháp chuẩn bị kỹ lưỡng và các bước đi nhằm tháo gỡ các vướng mắc như tôi vừa nêu, chắc chắn dự án cũng sẽ gặp phải những vấn đề đội vốn và trễ hạn. RFI: Đối với những dự án quan trọng như đường sắt cao tốc Bắc - Nam thì liệu Việt Nam có đủ trình độ kỹ thuật để tự mình thực hiện, hay là chúng ta phải nhờ đến trợ giúp của những nước đã có những kinh nghiệm, trình độ về những dự án tương tự? Lê Hồng Hiệp: Trong lĩnh vực xây dựng các tuyến đường cao tốc chẳng hạn, tôi nghĩ là Việt Nam có thể hoàn toàn đủ trình độ để làm được. Còn đối với lĩnh vực đường sắt thì chắc chắn là Việt Nam sẽ không đủ năng lực về mặt kỹ thuật để tự mình thực hiện.  Các dự án đơn giản hơn rất nhiều như các tuyến metro ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì cho tới lúc này chúng ta không tự chủ được về công nghệ mà phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Tuyến Cát Linh - Hà Đông là dựa vào công nghệ Trung Quốc, hay tuyến Bến Thành - Suối Tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh là dựa vào công nghệ của Nhật. Ngay cả những dự án đường sắt đô thị như vậy mà chúng ta cũng phải dựa vào công nghệ nước ngoài, thì dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam chắc chắn cũng sẽ phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Hiện tại Việt Nam chưa nêu rõ là sẽ nhập công nghệ từ nước nào, nhưng chúng ta có thể dễ dàng đoán được chắc chắn là sẽ tới từ những quốc gia có công nghệ đường sắt phát triển như là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc hay là Pháp, Đức ... Bên cạnh việc nhập về các công nghệ lõi, liên quan tới hệ thống động cơ, hệ thống đầu kéo, hay hệ thống điều khiển tín hiệu, vân vân, thì Việt Nam sẽ tự làm được những hạng mục nào và có thể nội địa hóa được bao nhiêu phần trăm các công đoạn các công nghệ liên quan tới cái dự án này? Vừa rồi tập đoàn Hòa Phát tuyên bố họ có khả năng cung cấp được thép làm đường ray của đường sắt tốc độ cao chẳng hạn. Ngoài Hòa Phát, còn có những công ty nào có thể cung cấp được các được các trang thiết bị đầu vào cho dự án này? Đấy là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Bao nhiêu phần trăm trong suất đầu tư lên lên tới 67 tỷ đô la Mỹ đấy sẽ ở lại Việt Nam và bao nhiêu sẽ chi trả cho đối tác nước ngoài? Tôi nghĩ đấy là vấn đề cần đặt ra. Vấn đề đặt ra tiếp theo là Việt Nam sẽ nhận chuyển giao công nghệ bao nhiêu từ các đối tác nước ngoài đó để có thể ít nhất là tự chủ được quá trình bảo trì bảo dưỡng dự án trong quá trình vận hành? Tại vì một khi chúng ta phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài về cả công tác bảo trì, bảo dưỡng, thì chắc chắn sẽ rất khó khăn trong việc vận hành. Thứ hai, sẽ có rất nhiều rủi ro dẫn tới việc gián đoạn dự án trong giai đoạn vận hành và chi phí để mà vận hành thì cũng sẽ đổi lên rất là nhiều. Tôi chắc chắn rằng là trong các điều khoản hợp tác với nước ngoài đó, Việt Nam sẽ nêu vấn đề này và sẽ coi nó như một điều kiện tiên quyết để có thể nhận chuyển giao các công nghệ và giao các gói thầu cho các đối tác nước ngoài thực hiện. RFI: Tóm lại, làm sao có thể khắc phục được những nguyên nhân đó để mà thật sự có được những công trình hạ tầng cơ sở hiệu quả và bền vững, có thể thật sự đóng góp cho phát triển kinh tế của Việt Nam? Lê Hồng Hiệp: Việt Nam phải áp dụng đồng loạt nhiều biện pháp khác nhau để làm sao bảo đảm rằng các dự án đó có thể được tiến hành một cách hiệu quả nhất, với chi phí tiết kiệm nhất và phát huy được hiệu quả cao nhất.  Thứ nhất là về tính minh bạch, tiết kiệm và chống tham nhũng, Việt Nam phải có các biện pháp liên quan tới công nghệ, tới chính sách, vân vân, để minh bạch hóa quá trình đấu thầu và quản lý chi tiêu, để làm sao quá trình này được minh bạch, hay là xử lý nghiêm các trường hợp tham nhũng, lợi ích nhóm, giảm thiểu lãng phí và thất thoát trong quá trình đầu tư. Thứ hai là phải cải thiện việc lập kế hoạch và dự toán các dự án này để đánh giá được tính khả thi, hay là dự trù các cái rủi ro như là biến động giá hay giải phóng mặt bằng ngay từ giai đoạn lập giá, để làm sao giảm đến mức tối thiểu các vấn đề đội vốn, hay kéo dài thời gian thực hiện dự án.  Thứ ba là phải nâng cao năng lực quản lý dự án: Đào tạo đội ngũ quản lý dự án chuyên nghiệp, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời phân quyền rõ ràng, giảm các thủ tục hành chính, vân vân, để làm sao rút ngắn được thời gian phê duyệt các dự án và đảm bảo có sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ ngành và địa phương, để làm sao các dự án này được thực hiện được một cách thông suốt nhất. Thứ tư là làm sao có thể giảm phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, đặc biệt là trong quá trình bảo trì bảo dưỡng. Công nghệ nước ngoài trong quá trình xây dựng thì chúng ta có lẽ là sẽ có ít lựa chọn, đặc biệt là đối với những lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao, như đường sắt tốc độ cao, còn đối với các lĩnh vực như bảo trì bảo dưỡng, chúng ta phải có sự tự chủ ở một mức độ tối đa, để làm sao phát huy được hiệu quả của dự án trong quá trình vận hành.  Thứ năm là làm sao huy động vốn một cách là hiệu quả và đa dạng hóa các nguồn lực. Chúng ta phải phát triển các thị trường vốn trong nước, thúc đẩy các mô hình hợp tác công tư chẳng hạn, với các cơ chế rõ ràng minh bạch để thu hút các nguồn lực từ lĩnh vực tư nhân, để làm sao giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước và đồng thời phát huy nguồn lực xã hội ở mức tốt nhất. Thứ sáu là làm sao đảm bảo hiệu quả bền vững về mặt kinh tế. Việt Nam hiện đang có rất nhiều dự án tham vọng.Tuy nhiên, không phải dự án nào cũng cần thiết hay là hiệu quả, mà Việt Nam phải tinh lọc để làm sao tập trung vào những dự án có tác động kinh tế lớn nhất và tránh dàn trải các nguồn vốn, dẫn tới cái sự lãng phí và kém hiệu quả.  Và điều cuối cùng tôi nghĩ cũng rất là quan trọng, đó là tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan bộ ngành và các lãnh đạo của các bộ ngành, các bộ trưởng, vân vân, để họ phải chịu trách nhiệm giải trình trực tiếp về tiến độ cũng như chất lượng dự án. Trong quá trình này, Việt Nam cũng cần phải công khai các thông tin về tiến độ, về chi phí dự án, về năng lực của các nhà thầu, để người dân có thể giám sát.
    --------  
  • Hiệp định EEZ với Indonesia: Việt Nam khẳng định chủ quyền ở Biển Đông nhưng không đối đầu với Trung Quốc
    Sau 12 năm đàm phán, Việt Nam và Indonesia đã đạt được thỏa thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế. Văn bản được công bố chính thức ngày 23/12/2022 trong chuyến thăm cấp Nhà nước Jakarta của chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Bước cuối cùng là Quốc Hội hai nước phê chuẩn văn bản để có chính thức có hiệu lực và giải quyết những căng thẳng, bất đồng và cùng phát triển khai thác tài nguyên theo đúng luật biển quốc tế. Trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 18/04/2025, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhấn mạnh bối cảnh quan hệ song phương tốt đẹp là một trong những yếu tố giúp Việt Nam và Indonesia thiết lập được thỏa thuận. Năm 2025, hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ “đối tác chiến lược” có từ năm 2013 được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” vào ngày 09/03/2025 nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của tổng bí thư Tô Lâm tới Indonesia. Về kinh tế, trong ASEAN, Indonesia là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ tư của Indonesia. Mục tiêu của hai chính phủ là tăng kim ngạch thương mại song phương lên 18 tỷ đô la vào năm 2028. RFI : Việt Nam và Indonesia sớm phê chuẩn hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Việt Nam và Indonesia có những yêu sách cụ thể như nào ở Biển Đông ? Laurent Gédéon : Các cuộc đàm phán về pháp lý liên quan đến hiệp định tập trung vào việc giải quyết các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà Việt Nam và Indonesia đều đòi chủ quyền. Tôi muốn nhắc lại cả hai nước đều là thành viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, được Indonesia phê chuẩn ngày 03/02/1986 và Việt Nam phê chuẩn ngày 25/07/1994. Như vậy, cả hai nước đều công nhận luật biển quốc tế. Sự chồng lấn về chủ quyền giữa hai nước liên quan đến vùng biển xung quanh quần đảo Natuna ở phía nam Biển Đông. Đối với Việt Nam, đường phân định EEZ phải trùng với ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Việt Nam. Hà Nội dựa vào thực tế là ranh giới này đã được xác định vào năm 2003 thông qua một thỏa thuận song phương. Ngược lại, Indonesia cho rằng ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế cần được đàm phán riêng biệt với ranh giới của thềm lục địa. Jakarta lập luận rằng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đây là hai vùng biển riêng biệt, cho nên phải được đàm phán riêng. Do đó, Indonesia muốn tính đến đường trung tuyến giữa quần đảo Natuna và Côn Đảo : Quần đảo Natuna cách đảo Kalimantan của Indonesia khoảng 300 km, còn Côn Đảo cách bờ biển Việt Nam khoảng 90 km. Nhưng đối với Hà Nội, việc sử dụng đường trung tuyến giữa các quần đảo là không công bằng vì có lợi cho Indonesia. Đọc thêmViệt Nam và Indonesia đạt đồng thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế Nhiều vấn đề pháp lý khác cũng đã được nêu lên trong quá trình đàm phán, đặc biệt là những khác biệt trong các đường cơ sở được sử dụng để đo khu vực phân định. Là một quốc gia quần đảo, Indonesia được phép sử dụng đường cơ sở quần đảo, tức là các đường thẳng, không nhất thiết phải chạy theo đường bờ biển, trong khi Việt Nam chỉ có thể sử dụng đường cơ sở thông thường chạy theo đường bờ biển. Hai phương pháp cơ bản khác nhau này làm phức tạp các cuộc đàm phán vì Hà Nội cho rằng điều này làm suy yếu vị thế của họ. Bất chấp những khác biệt, Indonesia và Việt Nam cuối cùng đã thống nhất về hai đường ranh giới phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, trong đó quy định rằng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là hai vùng biển riêng biệt cần được đàm phán riêng. Tuy nhiên, do tính chất bảo mật của các cuộc đàm phán song phương, cách thức hai bên áp dụng phương pháp đường trung tuyến để giải quyết tranh chấp của họ đã không được tiết lộ, nhưng không thể phủ nhận rằng đây là một sự thỏa hiệp mang tính sáng tạo, thể hiện bước tiến pháp lý đáng kể trong khi vẫn tuân thủ các nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. RFI : Thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế là bước tiến quan trọng sau hơn một thập niên đàm phán. Triển vọng của cả hai nước sẽ thế nào, cũng như tương lai về mối quan hệ giữa hai nước với Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Như đã nói, Hiệp định về vùng đặc quyền kinh tế giữa Indonesia và Việt Nam là một bước tiến lớn không chỉ trong quan hệ song phương giữa hai nước mà còn cho toàn bộ môi trường khu vực. Hệ quả đầu tiên và rõ ràng nhất là thỏa thuận này sẽ chấm dứt căng thẳng giữa hai nước liên quan đến hoạt động đánh bắt cá của tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển vẫn được Indonesia coi là vùng đặc quyền kinh tế của họ. Hệ quả thứ hai liên quan đến các nguồn năng lượng trong khu vực này, đặc biệt là khí đốt tự nhiên, một số mỏ nằm ở phần EEZ của Indonesia giáp với EEZ của Việt Nam. Việc làm rõ ranh giới giữa hai vùng đặc quyền kinh tế sẽ cho phép Indonesia tự do phát triển hoạt động thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên này. Hệ quả thứ ba mang tính chất pháp lý bởi vì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho các thỏa thuận tương tự có thể có giữa các nước khác trong khu vực, có nghĩa là có thể thấy trong việc áp dụng đường phân định kép (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế) một mô hình cho các cuộc đàm phán trong tương lai. Hệ quả cuối cùng ảnh hưởng đến Trung Quốc vì đường ranh giới chung do Việt Nam và Indonesia thiết lập chồng lấn một phần với đường chín đoạn đánh dấu yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông. Đọc thêmViệt Nam kêu gọi ASEAN đoàn kết vào lúc Bắc Kinh lấn lướt ở Biển Đông Tuy nhiên, có một thắc mắc về chính sách của Indonesia liên quan đến Trung Quốc. Nhân chuyến thăm Bắc Kinh ngày 09/11/2024 của tổng thống Indonesia Prabowo Subianto, nhiều thỏa thuận đã được ký kết, kể cả hợp tác công nghiệp và khai khoáng, hợp tác thương mại, với tổng giá trị lên tới 10 tỷ đô la. Ngoài ra còn có một thỏa thuận về hợp tác hàng hải, trong đó hai bên cam kết cùng nhau phát triển kinh tế hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực có tranh chấp chồng lấn. Tuyên bố chung được đưa ra trong dịp này nêu rõ rằng hai nước đã “đạt được một thỏa thuận quan trọng về phát triển chung ở những khu vực có yêu sách chồng lấn”. Tuy nhiên cho đến nay, tất cả các nước có tranh chấp hàng hải với Bắc Kinh, như Indonesia, Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan, đều tránh tham gia vào thỏa thuận phát triển chung với Trung Quốc vì sợ rằng việc đó sẽ bị hiểu là công nhận chính thức các yêu sách của Trung Quốc. Mặc dù Indonesia đã thận trọng khẳng định lại rằng họ không công nhận các yêu sách quá đáng của Trung Quốc đối với Biển Đông, nhưng thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Jakarta đã đánh dấu sự phá vỡ lập luận trước đây và cho thấy rõ mâu thuẫn trong lập trường của Indonesia về luật hàng hải quốc tế. Về phần Việt Nam, quốc gia không bị ràng buộc bởi bất kỳ thỏa thuận chung nào với Trung Quốc về các khu vực tranh chấp, vẫn kiên định với lập trường của họ và trong phản đối các yêu sách hàng hải của Trung Quốc. Đối với Hà Nội, thỏa thuận này chắc chắn là một bước đột phá ngoại giao lớn và là tiền lệ pháp lý mà Hà Nội có thể khai thác ở cấp độ ngoại giao. Ngoài ra, thỏa thuận cũng có lợi thế là không đặt Hà Nội vào thế đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi vẫn khẳng định được cam kết của họ đối với luật pháp quốc tế. RFI : Sau thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia, liệu đã có thể nói đến một liên minh đối trọng Philippines, Indonesia, Việt Nam để đối phó với các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông không ? Laurent Gédéon : Có, trong bối cảnh Trung Quốc luôn chú ý đến việc không để một mặt trận chống Trung Quốc trỗi dậy giữa các quốc gia ven Biển Đông và rộng hơn là trong ASEAN, thì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho sự xuất hiện của các chiến lược tập thể đối phó với những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông. Những chiến lược này đáng chú ý - và cũng gây vấn đề cho Trung Quốc - vì chúng được thực hiện theo cách tuân thủ chặt chẽ luật hàng hải quốc tế. Việc này càng giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và củng cố thêm sự cô lập của Trung Quốc đối với các yêu sách chủ quyền tối đa của nước này. Đọc thêmThỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông? Cho nên chúng ta có thể thấy những thỏa thuận kiểu này gia tăng trong tương lai, đặc biệt là liên quan đến Việt Nam, Philippines và Malaysia. Đó là một quá trình dài, trước hết đòi hỏi các đối tác tăng cường tin tưởng nhau, và sẽ ngày càng phức tạp hơn vì liên quan đến các vùng biển quanh quần đảo Trường Sa, nơi vẫn được biết đến là trung tâm của các vấn đề địa-chiến lược đặc biệt quan trọng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng việc ký kết các hiệp định quốc tế là sự kiện quan trọng nhưng việc thực hiện chúng cũng quan trọng không kém. Và về điểm này, sẽ cần phải phân tích cẩn thận những tác động thực địa của hiệp định Việt Nam-Indonesia để đưa ra kết luận và phát triển các phân tích triển vọng có thể diễn ra. Cho nên, ngoài một liên minh đối trọng giữa Philippines, Việt Nam và Indonesia, chúng ta có thể xem rằng các thỏa thuận kiểu này phù hợp với sự hội tụ lợi ích ngầm hoặc rõ ràng của ba nước vì chúng hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc khẳng định các yêu sách chủ quyền và dẫn đến việc Bắc Kinh ngày càng bị cô lập về pháp lý. Dĩ nhiên Trung Quốc có thể tìm cách đảo ngược để áp đặt quan điểm của họ, nhưng việc đó sẽ làm giảm thêm tính hợp pháp về mặt pháp lý của các hành động, yêu sách của Bắc Kinh. Do đó, thỏa thuận này có thể đóng vai trò là mô hình giải quyết các tranh chấp hàng hải khác ở Đông Nam Á và tạo thành đòn bẩy ngoại giao khôn khéo để thay đổi tình hình trong khu vực. RFI : Việt Nam đã bị Ủy Ban Châu Âu đưa ra “thẻ vàng” về tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp. Thỏa thuận với Indonesia được coi là dấu chấm hết cho tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp trong khu vực. Liệu đây có phải là một kiểu cam kết để cá Việt Nam có thể vào thị trường châu Âu không ? Laurent Gédéon : Vùng đặc quyền kinh tế cho phép một quốc gia tiếp cận độc quyền các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển của nước đó. Việc phân định rõ ràng không gian này thường giúp tránh được những hiểu lầm và mâu thuẫn trong quản lý nguồn cá nếu các đối tác có thiện chí. Về mặt này, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia làm rõ quyền đánh bắt cá của cả hai bên ở Biển Đông và thể hiện sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trước đây, khi cả hai nước đều có yêu sách riêng, khiến việc xác định tàu cá có vượt qua ranh giới hay không trở nên khó khăn. Do đó, việc làm rõ biên giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định và trừng phạt những người vi phạm, đặc biệt là xung quanh quần đảo Natuna, nơi giàu tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, kiểu thỏa thuận này có giá trị vì nó tăng cường năng lực hợp tác và quản lý lẫn nhau giữa hai bên. Tình hình này chỉ có thể có lợi cho Việt Nam khi chứng tỏ rằng đất nước đã trưởng thành về năng lực quản lý nguồn lợi thủy sản. Đọc thêmChồng lấn EEZ, nguyên nhân vụ va chạm giữa tàu Việt Nam và Indonesia Không chỉ riêng ở Biển Đông, đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) là một vấn đề toàn cầu đe dọa hệ sinh thái đại dương và “đánh bắt cá bền vững”. Đây là lý do tại sao chính quyền Liên Hiệp Châu Âu đã giám sát Việt Nam sau cảnh báo vào năm 2017. Xin nhắc lại, những nước xuất khẩu sang Liên Âu được phân loại và có thể chịu trừng phạt tương ứng với hệ thống mã màu : xanh lá cây, vàng, đỏ, các lệnh trừng phạt có thể lên tới mức dừng hoàn toàn hoạt động thương mại. Do đó, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia có thể được coi là một giải pháp đôi bên cùng có lợi vì nó củng cố quan hệ song phương, tránh leo thang giữa ngư dân và cơ quan thực thi pháp luật. Còn đối với Việt Nam, thỏa thuận này cho thấy quốc gia này nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế và là đối tác đáng tin cậy cho Liên Hiệp Châu Âu. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
    --------  
  • Hòa giải để giải quyết tranh chấp: Trao đổi kinh nghiệm giữa Pháp và Việt Nam
    Trong lĩnh vực pháp lý, hợp tác giữa Pháp với Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất so với các nước phương Tây khác và hiện nay, một trong những tổ chức tham gia tích cực nhất vào hợp tác pháp lý Pháp - Việt, đó là Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu-Việt Nam ( ACJEV ), mà chủ tịch là nữ luật sư Thị Mỹ Hạnh Ngô Folliot. Bà Ngô Folliot cũng là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, một ủy ban được thành lập vào năm 2013. Trả lời RFI Việt ngữ tại Paris ngày 09/05/2025, luật sư Ngô Folliot nhắc lại: “Hợp tác pháp lý giữa Pháp và Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất trong số các nước phương Tây với Việt Nam. Hợp tác này bắt đầu từ năm 1993, với việc thành lập Nhà Pháp luật Việt-Pháp. Trung tâm này đã hoạt động rất tốt cho đến khi đóng cửa năm 2012, vì nhiều lý do. Luật sư đoàn Paris đã thành lập Ủy ban Việt Nam để tiếp nối hoạt động của Nhà Pháp luật, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo để hỗ trợ Việt Nam. Có thể nói là tôi hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực pháp lý gần như hằng ngày. Tôi thường xuyên phải trả lời những tham vấn, những câu hỏi của một sinh viên, một giáo sư hay một luật sư từ Việt Nam. Nhất là ở Pháp, với tư cách là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, trong khuôn khổ chương trình thực tập quốc tế, tôi còn tiếp nhận các sinh viên ngành luật, các luật sư Việt Nam sang Pháp thực tập. Họ tham gia các khóa thực tập bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, từ 3 tuần học lý thuyết tại Luật sư đoàn Paris và 3 tuần đến 1 tháng thực tập trong văn phòng luật sư của tôi. ” Cùng với đà phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều và vì thế cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp, bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng toà án. Hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, hoà giải đang dần dần trở thành phương thức giải quyết tranh chấp được các luật sư cũng như doanh nghiệp ưa chuộng. Các nhà hòa giải ở Việt Nam càng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước, trong đó có Pháp.  Dưới sự bảo trợ của đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, vào tháng 7 tới, Hội ACJEV sẽ phối hợp sẽ với Trung tâm Hòa giải Thương mại Quốc tế của Việt Nam và một số cơ quan khác, tổ chức những cuộc hội thảo ở ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Quy Nhơn về đề tài: “Hòa giải, hòa giải ở năm lục địa và vai trò của luật sư”. Luật sư Ngô Folliot cho biết: “Đây là lần thứ ba chúng tôi tổ chức hội thảo về vấn đề hòa giải. Dầu sao thì các chủ đề chính là do phía Việt Nam lựa chọn theo nhu cầu của họ. Gần đây nhất là vào năm 2023, chúng tôi đã trình bày về hòa giải tại Pháp và châu Âu. Điều mà những người bạn trong giới đại học Việt Nam, cũng như các hiệp hội luật sư và sinh viên quan tâm chính là các trung tâm hòa giải, mà đó cũng chính là hoạt động của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi trao đổi rất nhiều về hoạt động chuyên môn của mình. Hoạt động hòa giải ở Việt Nam có nền tảng chung với hoạt động hòa giải ở Pháp và châu Âu. Ở Việt Nam hiện nay, hòa giải là bắt buộc, là điều kiện tiên quyết trước khi đưa vụ việc ra tòa, giống như ở Pháp, Ý và các nước khác ở châu Âu. Đó là hòa giải trong khuôn khổ của tòa án. Nhưng cũng có những hình thức hòa giải ngoài tòa án, như hòa giải cơ sở, được sử dụng để giải quyết các tranh chấp trong khu phố. Đây là hình thức hòa giải thành công nhất và vẫn luôn tồn tại ở Việt Nam. Còn hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam ra đời từ nghị định năm 2017 khi các tranh chấp thương mại bùng nổ tại Việt Nam. Việc hòa giải là cần thiết và đặc điểm của nó là tính bảo mật. Người hòa giải cũng như các bên được yêu cầu không tiết lộ những gì đang diễn ra trong quá trình hòa giải, để có được sự tin tưởng của các bên liên quan khi sử dụng phương pháp giải quyết tranh chấp này. Tất nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng đến nay, với nghị định về hòa giải thương mại năm 2017, tức là 8 năm sau, hòa giải thương mại tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Tuy vậy, đây vẫn chưa phải là biện pháp thành công nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những cuộc hội thảo đầu tiên do hội ACJEV tổ chức cũng như trong các cuộc hội thảo sắp tới chính là dịp để hai bên trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động hòa giải, đặc biệt là kinh nghiệm của phía Pháp về những nhà hòa giải chuyên trách, theo lời luật sư Ngô Folliot:“Ví dụ, có những tranh chấp chuyên biệt, tức là trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng tái tạo, có những người hòa giải chuyên về các lĩnh vực này và họ sẽ can thiệp. Ngoài ra, ngay cả ở Việt Nam, ngày càng có nhiều tranh chấp với chính quyền có thể được giải quyết bằng phương pháp hòa giải. Trong lĩnh vực này, nhóm chúng tôi có hai chuyên gia, một cựu thẩm phán và một luật sư. Nói chung là các nhà hòa giải được chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực. Ngoài những người làm công việc hòa giải cơ sở hoặc các hoạt động hòa giải khác, còn có các nhà hòa giải chuyên về một số lĩnh vực nhất định. Bằng chứng là trong hội thảo mà chúng tôi tổ chức, có một nhà hòa giải trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, một nhà hòa giải trong lĩnh vực xây dựng, một nhà hòa giải trong các tranh chấp giữa nhà phân phối và nhà cung cấp. Những kinh nghiệm của Pháp và châu Âu luôn được bạn bè Việt Nam quan tâm, vì chúng ta không hành động theo cùng một cách. Ngay cả khi về cơ bản luật của hai nước có những nét giống nhau, nhưng về thực tiễn chắc chắn có những khác biệt. Chúng tôi quan tâm đến các hoạt động của Việt Nam, cũng như Việt Nam quan tâm đến các hoạt động của Pháp và châu Âu. Các hội thảo sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 4 tháng 7, tại Đà Nẵng ngày 9 tháng 7 và sau đó là tại Quy Nhơn ngày 12 tháng 7. Tại sao lại phải tổ chức ở ba địa điểm khác nhau? Đó chính là để cho càng nhiều người Việt Nam càng tốt tham dự các hội thảo này và có thể trao đổi với chúng tôi. Ngoài các hội thảo, còn có các cuộc thảo luận. Trong suốt năm, vẫn có những trao đổi ý tưởng giữa luật sư Việt Nam và Pháp và chúng tôi liên tục trao đổi ý tưởng để cải thiện cả hoạt động thực hành và kiến ​​thức của mình.”Chính là qua các cuộc hội thảo cũng như qua các trao đổi thường xuyên mà luật sư Ngô Folliot hiểu rõ hơn về hoạt động hòa giải ở Việt Nam, một lĩnh vực còn khá mới so với các lĩnh vực pháp lý khác:“Dĩ nhiên là luật lệ luôn cần được thay đổi để thích ứng với nhu cầu, với bối cảnh của đất nước, bối cảnh toàn cầu. Luôn có những điểm cần cải thiện, nhưng tôi thấy luật hòa giải của Việt Nam đã khá hoàn chỉnh mặc dù được ban hành những năm gần đây. Chắc chắn có những điểm cần hoàn thiện, nhưng không phải là về nội dung, mà chỉ là trong thực hành, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa. Luật hòa giải thương mại đã có từ 8 năm trước, Luật hòa giải, đối thoại thì mới được soạn thảo từ năm 2020 và có hiệu lực từ năm 2021. Chúng ta đã ở giai đoạn đầu với tất cả 16 tỉnh đều đã thực hiện thử nghiệm, tình hình chỉ có thể được cải thiện hơn. Hòa giải người tiêu dùng là phương thức hòa giải cơ bản nhất, có từ lâu nhất. Ở Pháp, chúng tôi có những người hòa giải chuyên trách cho từng lĩnh vực, ví dụ, nếu bạn có tranh chấp với một tiệm giặt ủi, bạn nên liên hệ với tổ chức quản lý các tiệm này. Nếu bạn có vấn đề về năng lượng hoặc điện, bạn hãy liên hệ với một chuyên gia hòa giải, mỗi lĩnh vực đều phải có người trung gian hòa giải riêng. Ngay cả trong giới luật sư, khi có tranh chấp giữa chúng tôi thì cũng cần có người hòa giải, phải cố giải quyết vấn đề thông qua người hòa giải trước khi tiến hành tố tụng. Tôi không biết ở Việt Nam có người hòa giải nào cho luật sư hay không, nhưng ngày càng có nhiều người hòa giải chuyên trách và họ sẽ phải được đào tạo trong các lĩnh vực họ hành nghề. Những người hòa giải phải hành xử một cách độc lập, vô tư và phải xử lý vấn đề như thể họ không biết các bên. Ngoại trừ trong các tranh chấp láng giềng: Ở Việt Nam có một đặc thù là người hòa giải phải là người biết rõ các bên, vì xung đột thường xảy ra ở làng quê, hay ở các thành phố nơi mọi người đều biết nhau, gia đình rất quan trọng. Trong trường hợp này, người hòa giải biết rõ các bên và gia đình của họ. Điều này rõ ràng là giúp giải quyết vấn đề tốt hơn.”Cuộc hội thảo được tổ chức tại Đại học Ngoại thương ở Hà Nội ngày 04/07 sẽ là dịp để hai bên Pháp - Việt Nam trao đổi về hoạt động hòa giải trên khắp 5 châu, đặc biệt là tại Pháp, châu Âu và châu Phi cũng như tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Các diễn giả cũng sẽ trình bày về hòa giải cho những tranh chấp trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng sạch và tranh chấp với cơ quan hành chính.
    --------  
  • Với 14 thỏa thuận trị giá 9 tỷ euro, tổng thống Macron muốn Pháp hiện diện mạnh mẽ tại Việt Nam
    Có 14 thỏa thuận quan trọng đã được ký trong chuyến thăm chính thức Việt Nam ngày 26-27/05/2025 của tổng thống Pháp Emmanuel Macron với tổng trị giá lên đến 9 tỷ euro trong các lĩnh vực quốc phòng, hàng không, đường sắt, vũ trụ, y tế và năng lượng. Theo Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, đây là “một dấu hiệu mạnh mẽ của sự tin cậy lẫn nhau và một giai đoạn mới trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện đầy tham vọng”. Pháp trở thành Đối tác chiến lược toàn diện thứ 8 của Việt Nam và là nước châu Âu đầu tiên được nâng lên mức này. Tại sao Việt Nam mở đầu cho chuyến công du Đông Nam Á của tổng thống Pháp? Trong bài phát biểu tại cuộc gặp với tổng bí thư Tô Lâm ở Văn Miếu, tổng thống Macron giải thích đó là vì “lịch sử của hai đất nước chúng ta, vì trao đổi rất sôi nổi mà chúng ta đã có và cũng vì một niềm tin sâu sắc rằng chúng ta có một trang mới cần viết và rất nhiều điểm chung cần làm và tiếp nối quyết định vào cuối năm 2024 nâng cấp mối quan hệ song phương lên hàng đối tác chiến lược toàn diện”.Nhìn chung, chuyến công du Việt Nam của tổng thống Emmanuel Macron có nhiều ý nghĩa : Tái khẳng định mong muốn khép lại quá khứ để trở thành đối tác ổn định của nhau trong mọi lĩnh vực ; hai nước làm cửa ngõ cho nhau thâm nhập khu vực ASEAN, Liên Hiệp Châu Âu để đa dạng hóa đối tác ; hình thành con đường thứ ba để tránh phụ thuộc vào hai cường quốc Mỹ, Trung Quốc.Khép lại quá khứ để trở thành đối tác ổn định của nhau trong mọi lĩnh vựcMong muốn bước sang trang mới được thể hiện ở việc hai cựu chiến binh Pháp và Việt Nam, hiện đã 90 tuổi, từng ở thế đối đầu trên chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954 đã nắm chặt tay nhau như đôi bạn tại Phủ chủ tịch trong lễ đón tổng thống Macron ngày 26/05. Hình ảnh đầy biểu tượng này còn tượng trưng cho sự hòa giải thành công, đặc biệt là “với việc hai bộ trưởng Pháp dự lễ kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ ngày 07/05/2024”. Theo giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại học Paul Valery - Montpellier 3, khi trả lời RFI Tiếng Việt, “thời khắc đó đã được chính quyền Việt Nam đón nhận rất nồng nhiệt và sau đó họ quyết định đẩy nhanh một chút tiến độ hòa giải”.Tại Hà Nội, tổng thống Macron nhắc lại mong muốn của Pháp “trở thành đối tác ổn định về mặt ngoại giao, thấu hiểu về chiến lược và quân sự và là đối tác trên hành trình năng lượng, công nghệ, công nghiệp mà Việt Nam đang hình thành”. Phát biểu với báo giới chiều 27/05, tổng thống Pháp cho biết : “Lần đầu tiên, chúng tôi (Pháp và Việt Nam) đã ký một ý định thư và một thư chung về mặt quốc phòng cùng với những thỏa thuận mua đầu tiên về những năng lực cơ bản, và mong muốn tiến triển trong các vấn đề quốc phòng và năng lực, máy bay trực thăng thông qua việc mở nhiều xưởng mới. Trong chuyến công du này, chúng tôi cũng đã ký một thỏa thuận về vệ tinh”.Pháp muốn trở thành đối tác an ninh uy tín, điểm tựa công nghệ cho Việt NamVấn đề an ninh quốc phòng, luôn là chủ đề lớn nhưng kín đáo trong hợp tác giữa hai nước, sẽ có triển vọng như thế nào sau chuyến công du Việt Nam của tổng thống Pháp ? Nhà sử học Pierre Journoud nhận định với RFI Tiếng Việt :“Có thể nói ngắn gọn rằng bối cảnh hiện nay thuận lợi cho việc Việt Nam và Pháp xích lại gần hơn trong lĩnh vực quốc phòng. Pháp là nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai thế giới vào năm 2024, cho nên có một số tham vọng chính đáng ở khu vực Đông Nam Á. Còn Việt Nam đã tổ chức triển lãm quốc phòng quốc tế lần thứ hai tại Hà Nội vào tháng 12/2024. Việt Nam bắt đầu đa dạng hóa việc mua vũ khí và trang thiết bị quân sự để bù đắp cho những thiếu hụt thực sự, hoặc được cho là như vậy, của nhà cung cấp Nga, vốn chiếm ưu thế ở Việt Nam”. Đọc thêmViệt Nam có sẵn sàng mua thiết bị quân sự hạng nặng của Pháp ?Trong tuyên bố chung, Việt Nam và Pháp nhất trí “phát triển quan hệ trong lĩnh vực quốc phòng nhằm củng cố năng lực tự chủ chiến lược của mỗi nước, phù hợp với nhu cầu của mỗi bên, đặc biệt là thông qua việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực trang bị quốc phòng với việc nghiên cứu, đề xuất và triển khai các dự án mang tính cơ cấu (…)”. Ngoài ra, hai nước “tiếp tục củng cố hợp tác phòng, chống tội phạm, xuất nhập cảnh trái phép và đưa người di cư bất hợp pháp, cũng như hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ an ninh dân sự”.Hàng loạt chủ đề hợp tác khác được đích thân tổng thống Emmanuel Macron liệt kê trong buổi trao đổi với báo chí chiều 27/05, cùng với nhận định “giữa hai nước có mối liên hệ rất mạnh mẽ”. Pháp sẵn sàng làm điểm tựa để Việt Nam phát triển công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực chiến lược như hàng không, vũ trụ, đường sắt, năng lượng phi carbon (gồm năng lượng tái tạo và hạt nhân, hydrogen), y tế, kinh tế công nghiệp, dịch vụ cho doanh nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực  khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ chiến lược.Cùng nhau đa dạng hóa quan hệ thương mại, tránh “bẫy” đối tác lớnĐa dạng hóa đối tác thương mại là chủ đề lớn thứ hai được đề cập trong mối quan hệ Pháp-Việt. Chuyến công du Việt Nam được tổng thống Macron nhấn mạnh diễn ra trong bối cảnh Mỹ “thay đổi thuế quan tùy theo mỗi sáng, hiện giờ là cùng 10% nhưng có thể đối với các bạn (Việt Nam) sẽ là 46%, Liên Hiệp Châu Âu là 50%”. Cả Pháp và Việt Nam, nhìn rộng hơn là Liên Hiệp Châu Âu và ASEAN, đều bị động vì lệ thuộc quá lớn vào một siêu cường như Mỹ hoặc Trung Quốc. Đọc thêm : Quan hệ Việt-Trung trong cơn bão thuế quan MỹChuyến thăm Hà Nội của tổng thống Macron có thể trở thành cơ hội để Việt Nam, Pháp cùng với Liên Hiệp Châu Âu tăng cường hiệp định tự do thương mại EVFTA ? Giáo sư lịch sử Pierre Journoud nhận định :“Tôi nghĩ hoàn toàn đúng. Việc này không hẳn là đơn giản vì chúng ta có thể thấy rằng hy vọng này đã có từ lâu và được nuôi dưỡng trong một thời gian dài. Nhiều bộ trưởng, thậm chí là thủ tướng của hai nước, trong nhiều năm, thậm chí là nhiều thập niên, đã bày tỏ mong muốn cải thiện mối quan hệ này. Tuy nhiên, thực trạng lại có xu hướng suy giảm khi nhìn vào số liệu về quan hệ thương mại, ít nhất là thị phần của Pháp tại Việt Nam. Khoảng giữa thập niên 1990, Pháp từng chiếm khoảng 4 hoặc 5% thị phần ở Việt Nam, nhưng hiện tại chỉ còn 0,5% hoặc nhỉnh hơn một chút, nhưng cũng phải nói là đúng vào thời kỳ Việt Nam mở cửa mạnh mẽ, đa dạng hóa đối tác, muốn mở rộng quan hệ ngoại giao và trao đổi kinh tế, thương mại. Và đó là điều rất tốt cho một đất nước đang thoát khỏi giai đoạn chiến tranh và cô lập kéo dài trên trường quốc tế. Tuy nhiên, mối quan hệ kinh tế còn kém xa so với kỳ vọng của cả Pháp và Việt Nam. Hy vọng rằng hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam vào năm 2019 sẽ mang lại những tác động tích cực cho cả hai bên, cũng như đối với quan hệ song phương Pháp-Việt. Và tôi tin rằng chính quyền Việt Nam cũng mong Pháp hành động để thuyết phục Ủy Ban Châu Âu sớm dỡ bỏ “thẻ vàng” đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, vì đây là vấn đề quan trọng đối với Hà Nội, khi chúng ta biết được tầm quan trọng của nghề cá trong nền kinh tế Việt Nam”.Trong khuôn khổ chuyến công du của tổng thống Macron, Việt Nam và Pháp đều thể hiện mong muốn trở thành cửa ngõ cho nhau để thâm nhập khu vực ASEAN, Liên Hiệp Châu Âu. Phát biểu tại cuộc gặp với tổng bí thư Tô Lâm, tổng thống Macron nhấn mạnh “các lợi ích và mục tiêu của Việt Nam và Pháp có nhiều điểm bổ trợ. Tương tự với ASEAN và Liên Hiệp Châu Âu”. Còn trong Tuyên bố chung, hai nước khẳng định “ủng hộ việc tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu (EU), cũng như quan hệ Đối tác phát triển ASEAN - Pháp và quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN - EU”. Trước đó, ngoại trưởng Việt Nam kiêm phó thủ tướng Bùi Thanh Sơn từng nhắc đến khả năng một ngày nào đó Hà Nội sẽ ký thỏa thuận Đối tác chiến lược toàn diện với Liên Âu.“Con đường thứ ba” : “Liên minh những nước độc lập” trước Mỹ, Trung QuốcTrong chuyến công du, tổng thống Macron nhấn mạnh đến “con đường thứ ba” không phụ thuộc vào Mỹ lẫn Trung Quốc mà “sự cạnh tranh giữa hai nước này có nguy cơ gây ra một cuộc xung đột lớn hơn nhiều ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương rộng lớn này”. Pháp có chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương từ năm 2018 để tăng cường hợp tác với các nước trong vùng nhằm bảo vệ luật pháp luật pháp quốc tế. Việt Nam hiểu rõ mong muốn của Pháp và điều này giải thích cho việc hai nước nâng cấp quan hệ lên mức cao nhất Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 10/2024.Đọc thêmTổng thống Macron gặp giới trẻ Việt Nam, kêu gọi “con đường thứ ba” vì hòa bình, công bằng và thịnh vượngKế hoạch hành động giai đoạn 2025-2028 triển khai Tuyên bố chung về việc nâng cấp quan hệ song phương đã được hai nước nhất trí phối hợp chặt chẽ để sớm thông qua. Để làm được việc này, ông Macron nhấn mạnh đến sự thông hiểu lẫn nhau, hiểu được triết lý, sự thay đổi trong xã hội hai nước và trên hết là những nguyên tắc dựa trên giá trị nhân văn. Chuyến thăm cấp Nhà nước của nguyên thủ Pháp có ý nghĩa quan trọng cho sự hợp tác song phương. “Đây là điểm không thể phủ nhận”, theo kiến trúc sư Emmanuel Cerise, giám đốc công ty PRX-Vietnam trong khuôn khổ hợp tác phi tập trung giữa thành phố Hà Nội và vùng Ile-de-France, khi trả lời RFI Tiếng Việt tại Hà Nội :“Việc tổng thống Pháp có mặt tại Hà Nội là minh chứng cho sự hợp tác của hai nước trong những lĩnh vực đang tiến hành. Đúng là hợp tác phi tập trung ngày càng được nhà nước và đại sứ quán Pháp xem là một trong những tác nhân hành động quan trọng của đội ngũ Pháp tại Việt Nam. Về vấn đề di sản, tôi biết là phái đoàn của tổng thống Macron cũng quan tâm đặc biệt đến văn hóa, mà di sản cũng là một phần của văn hóa. Hơn nữa, chương trình di sản mà chúng tôi đang hợp tác được gọi là di sản văn hóa và đây là vấn đề được Việt Nam mong muốn phát triển. Do đó, tôi hy vọng chuyến công du sẽ tạo thuận lợi cho mọi việc. Dù sao, đây là sự công nhận tuyệt vời”.Chuyến công du Hà Nội của tổng thống Macron đánh dấu một trang mới trong lịch sử hai nước, củng cố niềm tin lẫn nhau, mở ra những cơ hội hợp tác mới. Theo phát biểu của ông Macron, “với Pháp, các bạn (Việt Nam) có một người bạn được biết đến, chắc chắn và đáng tin. Chúng tôi cho là Việt Nam cũng nghĩ vậy. Và tại thời điểm chúng ta đang trải qua, chỉ điều này thôi đã có rất nhiều ý nghĩa”.
    --------  
  • JETP giúp Việt Nam tự chủ năng lượng sạch, làm đường sắt cao tốc và NET Zero
    Ngày 12/05/2025, đại sứ Liên Hiệp Châu Âu Julien Guerrier và đại sứ Pháp Olivier Brochet tại Việt Nam thăm thực địa dự án mở rộng nhà máy thủy điện Ialy, do Tập đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện với khoản vay ưu đãi 74,7 triệu euro từ Cơ quan Phát triển Pháp - AFD và khoản viện trợ 2 triệu euro từ Liên Âu. Dự án cũng nằm trong khuôn khổ JETP - Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng - giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, hướng tới loại bỏ sử dụng than đá. Được đưa vào hoạt động cuối năm 2024 sau bốn năm thực hiện, nhà máy Ialy lắp đặt bổ sung hai tổ máy có công suất 180 MW mỗi tổ, nâng tổng công suất của nhà máy lên 1.080 MW. Dự án Ialy được coi là một trong những dự án tiêu biểu thúc đẩy chuyển dịch năng lượng xanh tại Việt Nam, theo hướng tiếp cận Team Europe (Đội Châu Âu) và sẽ được tổng kết trong năm 2025.JETP được Việt Nam và Nhóm các đối tác quốc tế, bao gồm Liên Hiệp Châu Âu, nhóm G7, Na Uy và Đan Mạch, ký ngày 14/12/2022. Việt Nam trở thành một trong ba nước trên thế giới, cùng với Nam Phi và Indonesia, ký thỏa thuận được đánh giá là rất có lợi, với khoản tài trợ ban đầu lên tới 15,5 tỷ đô la, để hỗ trợ Việt Nam đạt được bốn mục tiêu đầy tham vọng (1) và sẽ có vai trò quan trọng trong bối cảnh Việt Nam muốn xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam.Đọc thêmThiếu điện gây cản trở cho tham vọng về môi trường của Việt NamTrong khuôn khổ JETP, Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư châu Âu (BEI) ký Biên bản ghi nhớ thể hiện cam kết chung trong việc thành lập một cơ sở tín dụng đa dự án trị giá 500 triệu euro, để tài trợ cho các dự án hỗ trợ quá trình khử cacbon và chuyển đổi năng lượng. Ngoài ra, Liên Hiệp Châu Âu cũng cấp cho Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) một khoản ngân sách để hỗ trợ kỹ thuật cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) trong việc phát triển và triển khai các dự án liên quan đến JETP.Để hiểu thêm về Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng - JETP và những dự án hỗ trợ của Nhóm đối tác, đặc biệt là sau khi Hoa Kỳ rút khỏi nhiều cam kết về chống biến đổi khí hậu, đại sứ Liên Hiệp Châu Âu tại Việt Nam Julien Guerrier dành cho RFI Tiếng Việt một buổi phỏng vấn.RFI : Tháng 12/2022, Nhóm các đối tác quốc tế, bao gồm Liên Hiệp Châu Âu, G7, Na Uy và Đan Mạch, đã ký JETP (Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng) với Việt Nam. Việt Nam là nước thứ ba (cùng với Nam Phi và Indonesia) được hưởng lợi từ quan hệ đối tác này. Tại sao Việt Nam được chọn ? Xin ông giải thích ý nghĩa và mục tiêu của thỏa thuận này ?Đại sứ Julien Guerrier : Vâng, Việt Nam là một quốc gia rất đặc biệt và đó là lý do vì sao chúng tôi chọn Việt Nam, bởi vì tăng trưởng kinh tế ở đây cực kỳ nhanh và cao, nhu cầu năng lượng tăng trung bình gần 7% mỗi năm trong 10 năm qua và sản lượng điện sẽ phải tăng gấp đôi từ nay đến năm 2030 để duy trì tốc độ tăng trưởng hiện tại. Nhưng vì than vẫn được sử dụng rất nhiều ở trong nước, đến năm 2024 vẫn chiếm đến 50% cơ cấu năng lượng. Lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính bình quân đầu người đã tăng gần sáu lần trong hai thập niên qua. Chính vì thế chúng tôi muốn hợp tác với Việt Nam, quốc gia nhận thức được về những tác động môi trường và sức khỏe của lộ trình này và đã cam kết đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.Tháng 12/2022, Việt Nam đã ký một tuyên bố chính trị với nhóm IPG - Nhóm đối tác quốc tế - như chị đề cập, bao gồm các nước G7, Đan Mạch và Na Uy, do Liên Hiệp Châu Âu và Vương quốc Anh đồng lãnh đạo, nhằm hỗ trợ mục tiêu đầy tham vọng này. Điều chúng tôi muốn cố gắng thực hiện với JETP là giúp Việt Nam đạt được mục tiêu trung hòa về cacbon vào năm 2050, bằng cách đẩy nhanh và hạn chế mức đỉnh phát thải khí nhà kính từ ngành điện từ nay đến năm 2030, hạn chế công suất lắp đặt các nhà máy điện than ở mức 30 gigawatt từ nay đến năm 2030 và tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng lên 47% vào năm 2030.Đọc thêmViệt Nam kêu gọi doanh nghiệp giảm tiêu thụ năng lượngVà để giúp chính phủ Việt Nam thực hiện được điều đó, chúng tôi sẽ hỗ trợ với khoản tài trợ ban đầu là 15 tỷ euro, một nửa trong số đó là nguồn tài trợ của khu vực công, từ các nhà tài trợ và một nửa là nguồn tài trợ của khu vực tư nhân được tạo điều kiện bởi liên minh các ngân hàng chống biến đổi khí hậu Glasgow Financial Alliance for Net Zero (GFANZ).  RFI : Nhiều chuyên gia và cơ quan truyền thông đã đưa tin rằng có rất ít tiến triển đạt được sau hai năm. Quá trình thực hiện thỏa thuận này bị cản trở ở điểm nào ? Sự chậm trễ này ảnh hưởng như thế nào đến toàn bộ quá trình ? Liệu những khó khăn và trở ngại hiện tại có thể sớm được giải quyết không ?Đại sứ Julien Guerrier : Tuyên bố chính trị mà tôi đã đề cập ở trên được ký vào tháng 12/2022, cho nên có tương đối ít thời gian để đạt được nhiều tiến bộ. Và quá trình chuyển đổi năng lượng là điều khó khăn ở Việt Nam, cũng như ở mọi quốc gia khác, bao gồm cả Pháp và Liên Hiệp Châu Âu, vì có nhiều thách thức lớn cần phải giải quyết.Không phải chỉ xây dựng các nhà máy điện mới và tăng sản lượng năng lượng tái tạo là xong mà còn là xem xét lại cơ sở hạ tầng năng lượng hiện tại, vốn được xây dựng phục vụ nhiên liệu hóa thạch như than, dầu và khí đốt. Điện gió và điện mặt trời phải có khả năng kết nối với cơ sở hạ tầng năng lượng này, vốn phải được thiết kế lại hoàn toàn, từ hệ thống sản xuất đến truyền tải và tích trữ điện. Đó là những khoản đầu tư lớn, tốn kém và mất thời gian. Và đó là lý do tại sao tiến độ còn bị tương đối hạn chế. Nhưng như đã đề cập trước đó, Indonesia và Nam Phi cũng đã ký JETP. Nước thứ ba là Việt Nam và hiện nay, Việt Nam đang tiến nhanh hơn cả hai nước kia.Đọc thêmBỏ điện than để thực hiện cam kết khí hậu: Thách thức lớn đối với Việt NamĐể vượt qua những thách thức tôi đã đề cập, cần phải hợp tác ở mọi cấp độ của chính quyền Việt Nam, các doanh nghiệp và cá nhân. Và cần phải thực hiện những khoản đầu tư đáng kể, thiết thực, và tất cả các đối tác này cần phải cam kết lâu dài. Đây là những gì chúng tôi đang thực hiện bằng cách xây dựng kế hoạch triển khai đã được Việt Nam thông qua vào cuối năm 2023.Chúng ta thấy rằng Việt Nam đang tổ chức với việc thủ tướng đã bổ nhiệm bộ trưởng Công Thương làm người phụ trách JETP vào tháng 10/2024, và kể từ đó, một số cơ cấu đã được đưa vào hoạt động để tham khảo ý kiến ​​của các đối tác khác nhau, phối hợp các chuyên môn cần thiết và lập danh sách các dự án mà chúng tôi sẽ tài trợ thông qua JETP - những dự án sẽ cho phép chúng tôi đạt được các mục tiêu đã đề ra : đạt đỉnh sử dụng than vào năm 2030 và tăng năng lượng tái tạo lên tới 47% trong cơ cấu năng lượng vào năm 2030.Vì vậy, chúng tôi tin rằng tiến độ tuy chậm nhưng vẫn đạt được và chúng tôi sẽ có những dự án cụ thể được triển khai trong tương lai gần.RFI : Để giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu đề ra, các dự án trong JETP với Việt Nam có được nhóm đối tác quốc tế hỗ trợ không ? Và tiến triển của dự án được đánh như thế nào ?Đại sứ Julien Guerrier : Có, tất cả các dự án thuộc JETP đều được hưởng sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Nhóm các đối tác quốc tế (IPG) và liên minh các ngân hàng chống biến đổi khí hậu GFANZ cũng tham gia vào JETP mà tôi đã đề cập. Hiện tại, chúng tôi đang nghiên cứu về danh sách 9 dự án được các nhà tài trợ đề xuất. Về phần mình, Việt Nam đang xây dựng danh mục 35 dự án để sớm trình lên Nhóm các đối tác quốc tế và ngân hàng tư nhân. Và để được hưởng sự hỗ trợ tài chính từ các nhà tài trợ quốc tế, mỗi dự án phải được nghiên cứu và đánh giá trong suốt vòng đời của dự án theo các chặng thời gian đều đặn, với sự hợp tác của thành viên tài trợ sẽ hỗ trợ về mặt tài chính và các bên liên quan. Vì vậy, mỗi dự án riêng biệt đều khác nhau và liên quan đến nhiều bên liên quan khác nhau, nhưng trong mọi trường hợp, đều có hoạt động giám sát và đánh giá.RFI : Hoa Kỳ, một trong những đối tác của Việt Nam trong JETP, đã rút khỏi nhiều chương trình về khí hậu. Quyết định của Mỹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến thỏa thuận đối tác đã ký với Việt Nam cũng như nỗ lực của các nước ký kết còn lại trong Nhóm đối tác quốc tế ?Đại sứ Julien Guerrier : Đúng vậy, đáng tiếc là Hoa Kỳ đang rút khỏi nhiều chương trình về khí hậu. Trong khuôn khổ JETP với Việt Nam, khoản đóng góp công của Hoa Kỳ là khoảng một tỷ euro, chiếm chừng 7% tổng cam kết thông qua sự kết hợp giữa tài chính và hỗ trợ kỹ thuật. Vì vậy, 7% không phải là con số không đáng kể. Nhưng điều này cũng không có khả năng gây nguy hiểm cho sự thành công của JETP.Đọc thêmPháp triển khai dự án hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu tại 15 tỉnh Việt NamLiên Hiệp Châu Âu và Vương quốc Anh, như tôi đã nói trước đó, là hai thủ lĩnh trong Nhóm các đối tác quốc tế. Cùng với Anh Quốc, chúng tôi hoàn toàn cam kết hỗ trợ Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch và đạt được mục tiêu trung hòa về khí thải vào năm 2050. Vì vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục. Và sức mạnh của quan hệ đối tác chính trị, tài chính và kỹ thuật của JETP còn nằm ở sự đa dạng của các đối tác cam kết hỗ trợ quá trình chuyển đổi công bằng tại Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng huy động số tiền tài trợ đã được lên kế hoạch, các khoản tài trợ còn cần thực hiện trong khuôn khổ kế hoạch thực hiện mà tôi đã đề cập trước đó - kế hoạch huy động nguồn lực. Và chúng tôi cũng nhận thức rằng về phía khu vực tư nhân, các nhà đầu tư đang rất nỗ lực vì có rất nhiều cơ hội lớn cho sản xuất năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi vẫn quyết tâm hợp tác với Việt Nam để JETP thành công và tôi tin tưởng rằng chúng ta có thể đạt được điều đó.RFI : Ông đã tham gia một cuộc họp với thủ tướng và chính phủ Việt Nam vào tháng 03. Sau cuộc họp này, liệu có hy vọng rằng dự án, cũng như đầu tư của châu Âu sẽ được khởi động lại nhanh hơn trong tương lai không ? Đại sứ Julien Guerrier : Có, chắc chắn là có. Ngày 02/03, thủ tướng Việt Nam đã gặp gỡ đại diện các công ty châu Âu có trụ sở tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng. Các công ty châu Âu đã giải thích các biện pháp và cải cách quy định là điều cần thiết để thu hút đầu tư vào năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các dạng năng lượng tái tạo khác. Thủ tướng đã lắng nghe, các bộ trưởng cũng có mặt. Các chỉ dẫn rõ ràng đã được đưa ra nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư của châu Âu nói chung và trong lĩnh vực năng lượng tái tạo nói riêng. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng với sự lãnh đạo như vậy ở cấp cao nhất của nhà nước, chúng ta sẽ thấy những tiến bộ nhanh chóng trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam và sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư châu Âu trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn đại sứ Liên Hiệp Châu Âu Julien Guerrier tại Việt Nam.(1) Thông cáo báo chí của Liên Hiệp Châu Âu, ngày 14/12/2022.
    --------  

Om Tạp chí Việt Nam

Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Podcast-webbplats
Sociala nätverk
v7.18.6 | © 2007-2025 radio.de GmbH
Generated: 6/23/2025 - 7:38:28 PM
OSZAR »